SKKN NGUYỄN THỊ THANH TUYẾN NH 2020-2021
Lượt xem: Lượt tải:
Thông tin | Nội dung |
---|---|
Tên tài nguyên | SKKN NGUYỄN THỊ THANH TUYẾN NH 2020-2021 |
Loại tài nguyên | Sáng kiến kinh nghiệm, |
Tên tập tin | |
Loại tập tin | |
Dung lượng | -1 |
Ngày chia sẻ | 07/03/2021 |
Lượt xem | 482 |
Lượt tải | 5 |
Xem tài liệu | Xem Online |
Tải về |
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN
LÀM TỐT CÔNG TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ TẠI TRƯỜNG MẪU GIÁO VÀNH KHUYÊN
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Trẻ em, thế hệ mầm non tương lai của đất nước, là những chủ nhân sẽ kế thừa và phát huy những gì tốt đẹp nhất của loài người. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ sau này. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người, nhiều vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực, gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để biết lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó, việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi cá nhân để sống tích cực, sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ những kiến thức cần thiết về kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các em hiểu, biết những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.
Vì vậy, trong mục tiêu Giáo dục Đào tạo ghi rõ hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa: khỏe mạnh, nhanh nhẹn, phát triển hài hòa, cân đối, giàu lòng yêu thương biết quan tâm, nhường nhịn giúp mọi người, biết yêu thích và giữ gìn cái đẹp, thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá và tìm tòi một số kỹ năng cơ bản như: nhẹ nhàng, khéo léo, biết xin lỗi và nhận lỗi khi mình có lỗi.
Chính vì thế, nhiệm vụ của các cô giáo mầm non về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ hiện nay đang là vấn đề bức thiết. Do đó việc bồi dưỡng, chỉ đạo cho đội ngũ giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường Mẫu giáo Vành Khuyên”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ ở trường mầm non và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào học trường phổ thông và sự phát triển sau này của trẻ.
Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ để đạt được hiệu quả cao hơn.
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tư vấn tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học với các bậc cha mẹ cho toàn thể đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của trường.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường Mẫu giáo Vành Khuyên – phường Bình Tân- thị xã Buôn Hồ – tỉnh Đắk Lắk.
4. Giới hạn của đề tài.
* Về nội dung: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ ở trường Mẫu giáo Vành Khuyên- phường Bình Tân- thị xã Buôn Hồ – tỉnh Đắk Lắk.
* Đối tượng khảo sát: Giáo viên, học sinh trường Mẫu giáo Vành Khuyên.
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2020 đến tháng 3/2021.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài “ Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường Mẫu giáo Vành Khuyên”, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp thực hành.
– Phương pháp thống kê giáo dục.
– Phương pháp trực quan hình ảnh.
– Phương pháp điều tra, thu thập thông tin cá nhân
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Kỹ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive) giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước những nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày
Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới, cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức hình thành thái độ và kỹ năng.
Những năm gần đây, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, những can thiệp dựa trên giáo dục kỹ năng sống giúp cho việc thay đổi hành vi đạt hiệu quả cao hơn so với các phương pháp tiếp cận chỉ cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức. Ở Việt Nam, những năm gần đây, việc giáo dục kỹ năng sống ngày càng được nhân rộng về nội dung chương trình và bước đầu đã có những kết quả đáng ghi nhận.
Vì vậy, trường mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những thói quen học tập, sinh hoạt hàng ngày.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, đó là những hoạt động tích cực, hướng vào những hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ với mục đích giúp trẻ có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống, thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Định hướng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống. Theo một số nghiên cứu cho thấy, các kỹ năng sống khác nhau theo địa lý, thời gian… Ví dụ như trẻ em vùng biển thì có một số kỹ năng sống khác với trẻ em vùng núi, kỹ năng sống của trẻ em thành phố khác với kỹ năng sống trẻ em nông thôn, kỹ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kỹ năng sống trẻ em bây giờ… Tuy nhiên có thể thấy rất rõ ràng là kỹ năng sống luôn gắn bó với các giá trị. Các giá trị sống đúng đắn là kết tinh được truyền lại như sự tôn trọng, sống trách nhiệm, yêu thương, sự tự tin, sự sáng tạo, lòng ham hiểu biết…các giá trị này được truyền lại nhằm giáo dục giúp cho con người sống có chuẩn mực và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Ưu điểm: Trường được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Uỷ ban Nhân dân, Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Buôn hồ, chính quyền địa phương, cùng các bậc cha mẹ học sinh; và với 100% học sinh bán trú, cơ sở vật chất khang trang sạch đẹp, Tập thể giáo viên đoàn kết nhất trí, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong công tác cũng như trong đời sống.
Đa số giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ trên chuẩn, có sự nhiệt tình chia sẻ, phối hợp với nhau và luôn quan tâm tới trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc giáo dục trẻ.
Hạn chế: Hiện tại, trong giáo dục chưa có nhiều tài liệu sách báo về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên nghiên cứu, tham khảo, vì vậy còn nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, Kỹ năng tuyên truyền của giáo viên chưa đồng đều làm ảnh hưởng đến chất lượng truyền thông; nội dung, công tác phối hợp còn sơ sài, đôi khi thiếu tính thực tế, chưa phù hợp và chưa được cập nhật thông tin kịp thời dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được sự quan tâm và đáp ứng thông tin của các bậc cha mẹ và cộng đồng.
Đa số phụ huynh học sinh là người lao động làm nông nên chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Tại nơi trường đóng địa bàn, phần lớn phụ huynh làm nông, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, các bậc cha mẹ thường phải đi làm ăn xa và để con em mình ở nhà với ông bà nội, ngoại, vì vậy việc tuyên truyền vận động còn hạn chế với đối tượng có tuổi tác cao như ông bà nội, ngoại. Điều đó dẫn đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của giáo viên tại trường chưa được phát huy hết hiệu quả.
*Khảo sát đầu năm giáo viên:
Nội dung khảo sát Số lượng Tỷ lệ
Có những hiểu biết và nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 06/12 50%
Có kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 06/12 50%
Có nhiều đồ dùng, đồ chơi, thơ ca, truyện kể có nội dung giáo dục kỹ năng sống. 08/12 66%
Có nhiều hình thức, các hoạt động để lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Phát huy được tính tích cực của trẻ. 06/12 50%
*Kết quả khảo nghiệm học sinh toàn trường đầu năm 2018 – 2019.
Nội dung Tỉ lệ đạt % Ghi chú
Tốt Khá TB
Mạnh dạn tự tin 35% 35% 30%
Kỹ năng trong giao tiếp 35% 35% 30%
Kỹ năng thích khám phá học hỏi 35% 30% 35%
Kỹ năng vệ sinh cá nhân và tự lập 50% 20% 30%
Kỹ năng nhận thức 30% 35% 35%
* Về phía phụ huynh.
Tiến hành khảo sát mức độ nhận thức của phụ huynh về tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ tại 02 lớp là Lá và Mầm với tổng số 64 phụ huynh.
Mức độ Phụ huynh (Tổng số : 64)
Số lượng Tỷ lệ (%)
Rất quan trọng 08/64 12.5 %
Quan trọng 16/64 25%
Bình thường 31/64 48.4 %
Không quan trọng 09/64 14.1 %
Qua các bảng tổng hợp trên, cho thấy giáo viên đã nắm được nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ song chưa đầy đủ. Giáo viên đang còn tập trung vào việc dạy trẻ theo chương trình giáo dục mầm non, chưa coi trọng việc dạy trẻ kỹ năng sống nên việc tổ chức của giáo viên còn chưa cụ thể về nội dung và đa dang hóa các hình thức, phương pháp dạy trẻ. Nhiều giáo viên còn mơ hồ trong việc giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh, chủ yếu Qua các bảng tổng hợp trên, cho thấy giáo viên đã nắm được nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ song chưa đầy đủ. Giáo viên đang còn tập trung vào việc dạy trẻ theo chương trình giáo dục mầm non, chưa coi trọng việc dạy trẻ kỹ năng sống cho học sinh nên việc tổ chức của giáo viên còn chưa cụ thể về nội dung cũng dạy trẻ theo chương trình với các chủ đề trong năm, việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn lúng túng. Mới chỉ có 50% giáo viên có những hiểu biết và nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; 50 % giáo viên có kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Việc lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống tích hợp theo chủ đề trong năm học chưa linh hoạt.
Kỹ năng sống của học sinh còn nghèo nàn, đa số trẻ còn chưa biết cách ứng xử với các tình huống bất thường xảy ra cũng như chưa biết cách giao tiếp ứng xử có văn hóa với người thân và mọi người trong xã hội. Tỉ lệ trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp chỉ 35% trẻ làm tốt, các kỹ năng khác tỉ lệ còn thấp.
Phần lớn phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng sống cho con, 12% phụ huynh cho rằng việc dạy kỹ năng sống cho con là rất quan trọng; 25% là quan trọng, tỉ lệ chưa quan trọng là 48,4% và không quan trọng là 14,1%. Phụ huynh chưa thường xuyên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để cùng thống nhất giáo dục kỹ năng sống cho con về nội dung cũng như phương pháp. Một số phụ huynh chưa biết nội dung sẽ dạy gì và dạy như thế nào. Có thể phân tích một số yếu tố, nguyên nhân như sau:
– Đội ngũ giáo viên mới ra trường, kinh nghiệm trong giảng dạy còn ít nên còn nhiều bỡ ngỡ trong việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Năng lực, trình độ nhận thức, tuổi đời, của giáo viên trong nhà trường chưa đồng đều, giáo viên còn rập khuôn, cứng nhắc trong việc thực hiện giảng dạy
– Chưa biết cách lựa chọn nội dung giáo dục kỹ năng sống để vận dụng vào thực tế một cách hiệu quả.
– Cách tổ chức còn áp đặt, nặng nề, mang tính hình thức. Việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy chưa linh hoạt, sáng tạo vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm.
– Thiếu các điều kiện tối thiểu để tiến hành giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường, trước hết là tài liệu cho giáo viên và cho học sinh.
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cán bộ quản lý nhà trường: Phải tích cực tổ chức bồi dưỡng chuyên môn ngay và lâu dài để có đội ngũ giáo viên vững vàng về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như: Phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.
Giúp giáo viên làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để đạt được hiệu quả cao hơn. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tư vấn tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học cho toàn thể đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của trường.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Nhận thấy việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường là việc làm thường xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần của Ban giám hiệu nhà trường. Đặc biệt là vấn đề dạy kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học, nhà trường đã tiến hành họp chuyên môn và nêu nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, trong đó nhấn mạnh đến việc đưa các kỹ năng dạy trẻ tập làm một số công việc tự phục vụ, chú ý yếu tố cá nhân của trẻ.
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, trước tiên giáo viên phải có nhận thức về những nội dung dạy trẻ. Để giúp giáo viên có vốn kinh nghiệm nhận thức sâu sắc về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ thì cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên bao gồm những nội dung cụ thể sau:
– Cung cấp tài liệu cho giáo viên tham khảo về những hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống. Cho giáo viên tham khảo một số giáo án hay, những kinh nghiệm dạy trẻ có nội dung về giáo dục kỹ năng sống của các giáo viên giỏi và trên các tạp chí, bài báo.
– Tập trung bồi dưỡng cho giáo viên về lý thuyết những nội dung mà trẻ còn hạn chế để giáo viên có kiến thức dạy trẻ. Bồi dưỡng cho giáo viên hiểu rõ thế nào là dạy kỹ năng sống. Dạy kỹ năng sống là dạy cho trẻ những kỹ năng gì. Dạy kỹ năng sống cho trẻ vào thời điểm nào là hiệu quả nhất. Đặc biệt nhấn mạnh đến những kỹ năng: lao động tự phục vụ; hợp tác, chia sẻ; giao tiếp, lễ giáo; khám phá, học hỏi; mạnh dạn tự tin.
+ Kỹ năng sống tự tin: Ngay từ khi đến lớp giáo viên nên khuyến khích động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn trong lớp. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi, mọi lúc. Thể hiện khả năng, năng khiếu của bản thân trước tập thể như: Biết tự giới thiệu về bản thân, tham gia các chương trình văn nghệ, biểu diễn thời trang… Ví dụ: Trẻ tự tin đứng trước mọi người giới thiệu tên của mình và hát một bài hát yêu thích.
+ Kỹ năng lao động tự phục vụ: Trẻ ở lứa tuổi mầm non còn vụng về, khi để trẻ tự xúc ăn có thể bố, mẹ hoặc cô giáo thấy trẻ lúng túng thì lại đút cho trẻ ăn để tránh rơi vãi, hoặc là khi đến lớp bố mẹ không để cho con tự cất giày dép, áo khoác, ba lô mà lại làm giúp cho con. Cần xác định rằng đó là cách trẻ học làm người lớn, để cho trẻ tự cầm thìa xúc cơm ăn, giai đoạn đầu có thể trẻ chưa quen nhưng sau đó, trẻ dần thành thục trong việc tự phục vụ cho mình trong ăn uống và trong sinh hoạt. Ví dụ: Tự đi giày dép, uống nước, tự lấy nệm, lấy gối cho mình (trẻ lớp mầm)…tự mặc quần áo, cùng với cô và các bạn kê dọn bàn ăn, tự đánh răng sau khi ăn, tự rửa mặt …(trẻ 4-5 tuổi)
+ Kỹ năng vệ sinh cá nhân: Giúp cho giáo viên dạy trẻ có thể tự súc miệng, đánh răng và rửa mặt. Dạy trẻ cách rửa tay trước mỗi bữa ăn và nhận biết khi nào thì quần áo của mình bị bẩn cần phải giặt, biết giúp người lớn dọn dẹp, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Đối với các bé gái, giáo viên phải biết dạy trẻ thói quen chải tóc gọn gàng…
+ Kỹ năng sống hợp tác: Khi dạy trẻ kỹ năng hợp tác cần giúp trẻ hiểu có những công việc một mình sẽ không thể làm được. Ví dục: Trong giờ hoạt động góc trẻ hợp tác cùng bạn xây dựng ngôi nhà, khu vui chơi… Chính vì vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong nhóm.
+ Kỹ năng ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để tạo tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Ví dụ: Trong giờ Khám phá khoa học “ Một số con vật nuôi trong gia đình”, trẻ được quan sát các con vật, từ đó tìm hiểu xem con vật đó lông của nó như thế nào hay vì sao con gà lại dùng chân bới xuống đất để làm gì….
+ Kỹ năng giao tiếp: Trẻ cần biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ, nó có vị trí khá chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như: Đọc, viết…Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay một chính kiến nào đó, trẻ sẽ dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu được nên dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất có lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên giáo viên cần phải biết dạy trẻ sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ khi có người lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời “cảm ơn”, hoặc khi không may lỡ làm bạn ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi” đối với bạn.
– Bồi dưỡng về thực hành cho giáo viên:
Muốn giáo viên dạy được trẻ các kỹ năng sống thì đòi hỏi thao tác của giáo viên phải chuẩn mực và có sự thống nhất, những kỹ năng này phải được các cô giáo hướng dẫn đồng bộ, không có sự lệch lạc, mỗi lớp hướng dẫn một kiểu thì sẽ rất khó cho việc kế thừa từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Hướng dẫn cho giáo viên cách xây dựng các tiết học theo chủ đề, cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động chung, nhất là cách tạo ra các tình huống để trẻ giải quyết.
Chỉ đạo 100% các lớp có kế hoạch giáo dục kỹ năng sống. Ghi rõ những yêu cầu cần giáo dục trẻ trong năm và những biện pháp sẽ thực hiện như thế nào.
Hàng tháng tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm trao đổi về chuyên môn, cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Từ đó tìm ra những mặt tích cực và khắc phục những mặt còn tồn tại.
Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ dạy và các hoạt động của giáo viên có lồng ghép nội dung này, từ đó đánh giá được đúng mức trình độ của từng giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng, phát triển. Với những giáo viên khá, giỏi cần hướng cho giáo viên cách tổ chức các tiết dạy và các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống với nhiều hình thức sáng tạo, hấp dẫn. Cách làm đồ dùng, đồ chơi, sáng tác thơ ca, truyện kể có nội dung về giáo dục kỹ năng sống. Với những giáo viên mới và có chuyên môn trung bình, Ban giám hiệu đã tập trung bồi dưỡng về chuyên môn, tác phong sư phạm khi lên lớp, cách tổ chức các giờ dạy theo chủ đề, cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ sao cho phù hợp và có hiệu quả. Việc tổ chức các hoạt động mẫu và dự giờ giáo viên thường xuyên, bổ sung góp ý cho giáo viên theo đúng khả năng, chất lượng của giáo viên trong trường đã được nâng lên một cách rõ rệt. Việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cũng được thực hiện thường xuyên hơn ở trong tất cả các hoạt động.
Biện pháp 2: Hướng dẫn giáo viên cách xây dựng môi trường có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng, góp phần thực hiện đạt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Ngay từ đầu năm học nhà trường đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm các lớp trang trí phòng học đẹp mắt, màu sắc nổi bật, tạo môi trường ấm áp thân thiện để trẻ hứng thú khi được đến trường, để Mỗi ngày đến trường của trẻ thật sự là một ngày vui. Trang trí sân trường các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, các trẻ có hành vi chưa tốt hay trẻ cá biệt để từ đó giúp trẻ phát huy, tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
Trước mỗi lớp học có bảng tuyên truyền các bậc cha mẹ với tiêu đề “Những điều phụ huynh cần biết” trong đó gồm có các nội dung như: Danh sách trẻ, Kết quả theo dõi cân đo hàng tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe, các nội dung tuyên truyền về dịch bệnh, về giáo dục kỹ năng sống theo chủ đề… Các nội dung được trang trí đẹp mắt và nổi bật gây được sự chú ý của các bậc phụ huynh khi đưa đón trẻ.
Trong lớp, chỉ đạo giáo viên trang trí các góc mở cho trẻ được trải nghiệm và tham gia hoạt động. Ví dụ: Mảng tường trên lớp trang trí các hình ảnh làm nổi bật chủ đề, bên cạnh đó có mảng tường được cắt bằng các ô bóng kính cho trẻ tự ghép các hình ảnh vào…
Để đánh giá thực sự về khả năng hiểu biết và thói quen kỹ năng sống của trẻ tôi đã phối hợp cùng với các giáo viên thường xuyên sưu tầm, phô tô các bức tranh có nội dung về giáo dục kỹ năng sống và thay đổi theo tháng. Các hình ảnh này bao gồm những hành vi đúng, hành vi sai, những hành vi nên làm và những hành vi không nên làm. Giáo viên phải yêu cầu trẻ suy nghĩ và tìm được những hình ảnh đúng, sai. Vào những giờ chơi giáo viên cùng trẻ xem tranh, đàm thoại về các hành vi trong tranh. Những hình ảnh đúng thì tô màu, những hình ảnh sai thì gạch bỏ. Để trẻ thực sự có cơ hội phát triển tư duy thì giáo viên phải thường xuyên thay đổi các hình ảnh và đặc biệt các hình ảnh đó phải phong phú, phản ánh được các hoạt động diễn ra trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Chỉ đạo tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ vào cuối chủ đề của lớp, tổ chức giao lưu các lớp với nhau, tổ chức mừng sinh nhật một nhóm trẻ … Qua đó trẻ rất hứng thú và thông qua các hoạt động đó nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách rất nhẹ nhàng và có hiệu quả.
Đối với các góc khác trong lớp, Nhà trường chỉ đạo giáo viên xây dựng dưới dạng mở để cho trẻ cùng khám phá, trải nghiệm và giúp cô trang trí….
Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học.
Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hoá là rất cần thiết. Trên tiết học trẻ vừa được cung cấp kiến thức vừa được giáo dục kỹ năng cần thiết.
Ví dụ:
* Giờ học khám phá xã hội:
Trẻ được lĩnh hội những kiến thức về thế giới xung quanh, từ đó hình thành cho trẻ những kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ an toàn cho bản thân…
Với chủ đề Nghề nghiệp giáo dục trẻ biết trong xã hội có nhiều nghề, lựa chọn nghề giúp ích cho xã hội thông qua giáo dục trẻ Kỹ năng giao tiếp và Kỹ năng chia sẻ. Liên hệ một số nghề gần gũi xung quanh trẻ có thể làm gì để giúp đỡ các bác công nhân bớt mệt nhọc và vất vả. Ví dụ: Trẻ và mọi người không vứt rác, không phóng uế bừa bãi để người công nhân quét dọn đường phố không vất vả hơn.
Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Với chủ đề “ Bản thân” giáo viên cho trẻ trải nghiệm với các giác quan của mình, những trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của trẻ, tự giới thiệu về bản thân,sở thích…. Kỹ năng sống trẻ học được là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn
* Giờ học phát triển thể chất:
Giáo viên tổ chức cho trẻ các vận động như: Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục, chuyền bóng, bật qua vật cản, nhảy từ độ cao 45cm, ném trúng đích thẳng đứng, bò díc dắc qua 7 điểm, đi nối gót, …qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động, biết bảo vệ sức khỏe, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khoẻ mạnh, trẻ biết trong khi tập phải xếp hàng theo thứ tự không chen lấn xô đẩy nhau. Trẻ biết tự lấy đồ dùng, dụng cụ thể dục của mình. Biết hợp tác với bạn để chơi trò chơi.
* Giờ học tạo hình:
Đề tài “ Vẽ một số phương tiện giao thông”. Giáo dục trẻ không vứt rác xuống lòng đường, xuống sông khi đi trên các phương tiện giao thông, không chơi dưới lòng đường và đường sắt, kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi đi trên các phương tiện giao thông và cách ứng xử có văn hóa khi đi trên các phương tiện giao thông, kỹ năng thực hiện các luật giao thông bắt buộc, kỹ năng tự phục vụ như biết giúp cô phát màu, giấy vẽ, cất dọn đồ dùng…
* Giờ làm quen văn học:
Hướng dẫn giáo viện lựa chọn những bài thơ câu chuyện có mang tính giáo dục kỹ năng sống như : Tích Chu, Ba cô gái, Bác Gấu đen và 2 chú Thỏ, Nhổ củ cải…
Ví dụ: Giáo dục trẻ kỹ năng hợp tác thông qua câu chuyện “ Nhổ củ cải”: Một mình ông lão thì không thể nhổ được củ cải khổng lồ mà phải cần sự hợp tác của các thành viên trong gia đình thì mới nhổ được.
Với tiết kể chuyện “ Hai anh em”, tiết đóng kịch “Cây tre trăm đốt”, giáo viên kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời, cho trẻ nhập vào vai các nhân vật trong câu truyện, giáo dục trẻ làm việc theo nhóm, không tham lam ích kỹ, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với những người xung quanh.
* Giờ giáo dục âm nhạc:
Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “Cô giáo miền xuôi ”:
+ Trẻ nói: Cô ơi con không biết múa.
+ Cô: Thế con có yêu quý các cô giáo của mình không nào? À con yêu quý cô giáo của mình, vậy cô con mình cùng nhau múa nhé. Từ những lời động viên khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác…
Thông qua bài hát : “ Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
Ngoài ra các lớp còn tổ chức giờ học biểu diễn văn nghệ tại lớp để giúp trẻ tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
* Thông qua hoạt động “ Làm quen với toán” :
Đề tài “ Sắp xếp theo quy tắc” giáo viên sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy, trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác mới hoàn thành bài tập và trong giờ học nào giáo viên cũng sưu tầm những đồ dùng sáng tạo.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.
Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày
* Thông qua giờ đón và trả trẻ: Giúp cho giáo viên nhận thấy rằng việc dạy kỹ năng chủ yếu ở hoạt động này là kỹ năng tự phục vụ: Cất giầy dép, ba lô…., ngoài ra còn dạy trẻ kỹ năng giáo dục lễ giáo như: biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơn, không nói leo, tự tiện chen ngang lời nói khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác khi chưa được cho phép…
* Thông qua hoạt động ngoài trời : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Kéo co” ở trò chơi này cháu thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên.
Khi cho trẻ chơi tự do trong hoạt động ngoài trời, giáo viên vừa quan sát trẻ chơi vừa hướng dẫn trẻ cách chơi an toàn như: Cách trèo lên xuống thang, cách nắm thành cầu trượt để trượt cho an toàn, cách cầm dây thừng khi đi cà kheo, khi có bạn đang đi cà kheo thì không được đứng phía trước bạn vì sẽ gây nguy hiểm cho bạn, hướng dẫn trẻ biết kiên trì chờ đến lượt mình chơi, tuyệt đối không xô đẩy, tranh giành đồ chơi, chỗ chơi với bạn.
Chỉ đạo giáo viên sưu tầm các trò chơi vận động, dân gian sau đó phân loại các trò chơi theo tác dụng của chúng đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Rèn Kỹ năng hợp tác: Đây là một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này. Có những việc chúng ta không thể tự làm được, nếu được người khác giúp đỡ thì ta sẽ hoàn thành được việc ta muốn làm. Khi chúng ta kết hợp năng lực làm việc của mình với người khác theo cùng một mục đích chung, đó chính là sự hợp tác. Sự hợp tác giúp ta hoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự mình làm lấy. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cùng làm, cùng chơi với bạn bè, biết cảm thông và chia sẻ với bạn.
Trò chơi: “Bắt cá trong chum”. Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội một tay quàng qua vai bạn của đội mình, tay kia trong chum phối hợp với nhau để cùng bắt được cá. Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào bắt được nhiều cá nhất, đội đó giành chiến thắng.
Kỹ năng sống tự tin: Không ai sinh ra đã có ngay sự tự tin. Điều đó có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Sự tự tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có giá trị. Một trẻ tự tin sẽ “duy trì được khả năng học hỏi, khám phá trong học tập và luôn sẵn sàng đón nhận những thách thức mới, mong muốn được yêu quý và đón nhận chính là khởi đầu tuyệt vời để trẻ gần gũi hơn với mọi người.
* Thông qua hoạt động góc: Trẻ mầm non học bằng chơi – bằng trải nghiệm. Các góc chơi mang tính tích hợp cao trong giáo dục trẻ, đáp ứng nhu cầu của trẻ, đồng thời tích hợp nội dung giáo dục, trong đó có nội dung giáo dục kỹ năng sống nên giáo viên lồng ghép giáo dục các kỹ năng sống thông qua nội dung từng trò chơi đặc biệt là các trò chơi phân vai . Ví dụ : Trò chơi bác sĩ : qua trò chơi này cô giáo dạy trẻ biết cảm thông chia sẻ với người ốm, với người thiệt thòi …
* Thông qua hoạt động lao động – vệ sinh: Giáo dục trẻ đi đại tiện, tiểu tiện đúng chỗ và khi đi xong biết dội nước, các đồ dùng vệ sinh được dùng để ngăn nắp … Điều này giúp trẻ tự khẳng định mình, nhận thức được khả năng của mình, góp phần tham gia vào lao động thực sự của người lớn và các bạn cùng tuổi nhằm bảo vệ môi trường và trường mầm non sạch, đẹp. Trẻ biết phân loại rác; giữ gìn đồ chơi, đồ dùng; tiết kiệm nước trong sinh hoạt ở lớp và ở nhà; dùng chậu, cốc lấy nước không để vòi nước chảy liên tục khi đánh răng, rửa mặt. . . Biết cùng cô làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, biết giữ gìn quần áo, tay chân sạch sẽ, trẻ tham gia quét dọn sân trường.
*Phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Trong năm học nhà trường phối hợp với các đoàn thể xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ như: tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao nhân dịp kỹ niệm các ngày lễ lớn.
Ví dụ: Bé vui chơi ngày hội trăng rằm, múa hát nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 hay tổ chức hội thi trẻ mầm non hát dân ca….
Ngoài ra còn tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực như: trò chơi ô ăn quan, chồng nụ chồng hoa, chơi bật qua vòng…Tổ chức các buổi lao động phù hợp với lứa tuổi của trẻ như: Lao động dọn vệ sinh cùng cô, nhổ cỏ trong vườn hoa…
– Phát động phong trào “Bé cùng cô làm đồ dùng dạy học, đồ chơi dân gian bằng nguyên vật liệu phế thải”. Tổ chức hội thi “Bé tài năng” nhằm tìm ra các “tài năng nhí” để có kế hoạch bồi dưỡng kịp thời.
Biện pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh trong việc giáo dục về kỹ năng sống cho trẻ.
Việc làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh góp phần đáng kể trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, ngoài các giờ học, giờ chơi trên lớp ra, tôi chỉ đạo giáo viên phải thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để kịp thời nắm bắt tình hình của trẻ ở nhà, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. Tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với trẻ để giúp trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc sống. Trẻ luôn bắt chước người lớn, cha mẹ là những người lớn gần gũi trẻ nhất vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt trẻ mất thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ trẻ hãy chú ý giúp trẻ hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác.
Ví dụ: Cha mẹ cho phép trẻ vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để trẻ tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay trẻ.
Đầu năm học chỉ đạo các lớp họp phụ huynh học sinh. Nêu rõ yêu cầu và mục đích của nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong năm học. Phân tích để cha mẹ hiểu rõ việc nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và đã giúp phụ huynh hiểu rằng trẻ học là phải học cả đời. Mọi thành viên trong gia đình cần chú ý đến việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ năng, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Cha mẹ trẻ cần phối hợp vớp giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp trong nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khóa;
Ví dụ: Tham gia vào buổi chuyên đề “Môi trường và vệ sinh cá nhân”, chuyên đề “Luật lệ an toàn giao thông”. Tham gia cùng trẻ vào trong các hoạt động như “Ngày hội bé tri ân thầy cô giáo”, Chương trình “Chúng tôi là chiến sĩ” do nhà trường tổ chức.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền với các nội dung cần tuyên truyền được thể hiện trong chương trình từng học kỳ, từng năm học, từng tháng. Kế hoạch được xây dựng một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế của nhà trường.
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh những văn bản chỉ đạo, những chính sách, chế độ liên quan đến công tác giáo dục mầm non. Trong đó đặc biệt quan tâm đến nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trao đổi thường xuyên, hằng ngày giữa nhà trường, giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh qua điện thoại hoặc trao đổi trực tiếp thông qua giờ đón trẻ, trả trẻ. Nhà trường tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các bậc cha mẹ, tuyên truyền về phòng một số bệnh nguy hiểm, thường gặp ở trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Bồi dưỡng cho giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm rất cần thiết của một cán bộ quản lý. Bởi vì chất lượng hiệu quả của việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ phụ thuộc vào quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo mầm non. Nếu trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập và hoạt động góc, hoạt động ở mọi lúc mọi nơi được thiết kế dựa vào nội dung của các tiết học và việc tổ chức trò chơi hấp dẫn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ sẽ góp phần tích cực trong việc hình thành những kỹ năng sống cho trẻ, giúp trẻ ghi nhớ và vận dụng hành vi đúng vào xử lý tình huống trong cuộc sống hàng ngày một cách tự ý thức, mà không cần người lớn nhắc.
Để rèn luyện tốt kỹ năng sống cơ bản cho trẻ mầm non thì phải phối hợp nhiều giải pháp, biện pháp với nhau. Tuy mỗi biện pháp có những đặc điểm về tính chất, nội dung cụ thể khác nhau, nhưng luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, là một quá trình thống nhất không thể tách rời, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau và nội dung cùng hướng tới việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường. Tùy điều kiện tình hình của từng lớp, học sinh mà giáo viên áp dụng cho phù hợp
d. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua thực tế ở trường Mầm giáo Vành Khuyên thuộc phường Bình Tân, thị xã Buôn Hồ, tôi đã áp dụng một số biện pháp để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ tại trường đã thu được kết quả như sau.
-Kết quả khảo nghiệm học sinh cuối năm:
Nội dung Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài
Tốt Khá TB Tốt Khá TB
Mạnh dạn tự tin 35% 35% 30% 87% 8% 5%
Kỹ năng trong giao tiếp 35% 35% 30% 82% 16% 6%
Kỹ năng thích khám phá học hỏi 35% 30% 35% 87% 7% 6%
Kỹ năng vệ sinh cá nhân và tự lập 50% 20% 30% 84% 10% 6%
Kỹ năng nhận thức 30% 35% 35% 81% 11% 8%
– Kết quả khảo nghiệm giáo viên cuối năm
Nội dung khảo sát Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Có những hiểu biết và nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 06/12 50% 12/12 100%
Có kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 06/12 50% 12/12 100%
Có nhiều đồ dùng, đồ chơi, thơ ca, truyện kể có nội dung giáo dục kỹ năng sống. 08/12 66% 10/12 90%
Có nhiều hình thức, các hoạt động để lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Phát huy được tính tích cực của trẻ. 06/12 50% 10/12 90%
– Kết quả khảo sát phụ huynh về mức độ quan trọng của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
Mức độ Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Rất quan trọng 08 12.5 % 31 48.7 %
Quan trọng 16 25% 30 40.4 %
Bình thường 31 48.4 % 7 10.9 %
Không quan trọng 09 14.1 % 0 0 %
* Giá trị khoa học: Từ kết quả khát sát cho thấy vấn đề đang nghiên cứu đã mang lại giá trị khoa học cho việc dạy kỹ năng sống cho trẻ như sau.
Giáo viên ngày càng rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho chính bản thân khi thực hiện các hoạt động dạy trẻ. 100% giáo viên có kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, 100 % giáo viên có những hiểu biết và nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, có nhiều hình thức, các hoạt động để lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Phát huy được tính tích cực của trẻ. Có nhiều đồ dùng, đồ chơi, thơ ca, truyện kể có nội dung giáo dục kỹ năng sống. Qua tỉ lệ trên cho thấy, đối với việc dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non, nếu giáo viên biết lựa chọn đúng phương pháp, áp dụng vào trong hoạt động học, hoạt động chơi và tích hợp nhuần nhuyễn ở mọi lúc, mọi nơi sẽ mang lại hiệu quả cao cho công tác giảng dạy. Đó cũng là tiền đề quan trọng ban đầu cho việc phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập hiệu quả ngày càng cao.
Tỷ lệ trẻ mạnh dạn tự tin đạt loại tốt tăng 52%, kỹ năng trong giao tiếp tăng 47%, kỹ năng thích khám phá học hỏi tăng 52%, kỹ năng vệ sinh cá nhân và tự lập tăng 34%, kỹ năng nhận thức tăng 51%. Vốn từ tiếng Việt của trẻ ngày càng phong phú, cấu trúc ngữ pháp nói đúng rõ ràng, mạch lạc, biểu cảm. Trẻ nhanh nhẹn, tự tin tham gia vào các hoạt động, lễ phép, ngoan ngoãn và biết đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Như vậy càng khẳng định rằng kiến thức không dễ dàng có được mà nó phải trãi qua thời gian tập luyện, học tập nghiên cứu và điều đặc biệt là sự động viên kịp thời, sự tán dương của đồng nghiệp và sự ghi nhận kết quả đạt được của học sinh.
Trẻ đã biết động viên bố mẹ cùng tham gia Luật giao thông như: nhắc bố mẹ khi đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm, nhắc bố mẹ thu gom phế liệu, đóng góp tranh ảnh để làm đồ dùng, đồ chơi trang trí góc tuyên truyền. Trẻ tự phát triển ngôn ngữ mạch lạc, rõ ràng lưu loát đủ câu trong khi giao tiếp, khi đàm thoại. Tự có hành vi thái độ mong muốn được bảo vệ môi trường một cách rõ rệt.
Tỷ lệ nhận thức của phụ huynh về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống sau khi thực hiện đề tài này cũng đã tăng lên. Cụ thể phụ huynh cho rằng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là việc làm rất quan trọng tăng 36,2 %, mức độ quan trọng tăng 15,4 %, mức độ bình thường giảm từ 48,4% xuống còn 10,9 %, mức độ không quan trọng giảm từ 14,1% xuống còn 0%. Phụ huynh rất phấn khởi yên tâm khi thấy con em mình có ý thức học tập, biết quan tâm đến mọi người xung quanh trẻ, không những ở trường mà còn cả ở trong gia đình nên đã đóng góp tranh ảnh có nội dung về giáo dục, các hoạt động của con người về môi trường rồi đến các học liệu, vật liệu như: hạt rau, củ giống, rau, củ quả, bóng bay, nến, cát, sỏi… để cho giáo viên và học sinh trải nghiệm trồng, chăm sóc cây. Bản thân các bậc phụ huynh cũng ý thức cao và trách nhiệm cao hơn rất nhiều về việc giáo dục kỹ năng sống trong và ngoài trường mầm non.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận:
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ giúp trẻ phát triển tư duy, óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định mà còn giúp trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp… Tạo cho trẻ những kinh nghiệm bổ ích đối với cuộc sống thực tiễn hàng ngày diễn ra xung quanh trẻ. Giúp trẻ có một hành trang vững vàng, một tâm thế tự tin để bước vào cuộc sống.
Giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy, cô giáo phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo, để trẻ học làm người. Không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách. Yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ, mẫu mực về hành vi, lời ăn tiếng nói, cách ứng xử, giải quyết vấn đề.
Nghiên cứu các hoạt động nhằm tích hợp và lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được tiếp xúc, giao tiếp với bạn, với người xung quanh, hành vi ứng xử của giáo viên phải nhất quán để tạo thành những cảm nhận rõ ràng, chắc chắn nơi trẻ.
Tăng cường cho trẻ được rèn luyện kỹ năng sống ở lớp và ở nhà.
Giúp trẻ vận dụng các kiến thức và kỹ năng vào các tình huống trong cuộc sống và khả năng giải quyết các tình huống đó.
Kịp thời khen ngợi và động viên trẻ khi trẻ có những biểu hiện kỹ năng sống phù hợp.
Tạo điều kiện cho trẻ được quan sát, tiếp xúc thế giới xung quanh, môi trường xã hội gần gũi và được trải nghiệm những kỹ năng sống đã học.
Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để có sự thống nhất trong việc giáo dục trẻ.
2. Kiến nghị.
Ban giám hiệu nhà trường cần phối hợp chặt chẽ các đoàn thể trong nhà trường thực hiện tốt các phong trào thi đua và các cuộc vận động, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non nói chung và giáo dục trẻ kỹ năng sống nói riêng. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Tham mưu với các cấp, các ngành tăng cường đầu tư kinh phí mua sắm cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ đảm bảo nhu cầu chăm sóc – nuôi dưỡng và giáo dục trẻ theo hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Đối với giáo viên: Yêu nghề có tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao trong công việc. Yêu thương trẻ như chính con em ruột thịt của mình, luôn tự học, tự rèn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học với các bậc phụ huynh và cộng đồng.
Đối với phụ huynh học sinh: Quan tâm đến con, phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp với nhà trường cùng thống nhất chăm sóc- nuôi dưỡng và giáo dục trẻ theo khoa học nói chung và giáo dục trẻ kỹ năng sống nói riêng giúp trẻ phát triển toàn diện để chuẩn bị tốt cho trẻ vào học trường phổ thông.
Buôn Hồ, ngày 04 tháng 03 năm 2021
NGƯỜI THỰC HIỆN
Đã ký
Nguyễn Thị Thanh Tuyến
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu: 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 1
3. Đối tượng nghiên cứu. 2
4. Giới hạn của đề tài. 2
5. Phương pháp nghiên cứu. 2
II. Phần nội dung 2
1. Cơ sở lý luận 2
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 3
3. Nội dung và hình thức của giải pháp: 6
a. Mục tiêu của giải pháp 6
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. 6
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 15
d. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 15
III. Phần kết luận, kiến nghị 18
1. Kết luận: 18
2. Kiến nghị. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chăm sóc giáo dục kỹ năng sống mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện 5 – 6 tuổi – nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
2. Tâm lý học mầm non.
3. Tài liệu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non .
4. Chương trình bồi dưỡng thường xuyên theo Thông Tư số 36/1011/TT- BGDDT Ban hành Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non.
5. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Vụ Giáo Dục Mầm non. UNESCO tài liệu hướng dẫn các bậc cha mẹ chăm sóc giáo dục mầm non dùng cho trung tâm học tập cộng đồng Hà Nội 2006.
6. Lê Bích Ngọc Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi NXB Giáo Dục 2008- 2009